Các sản phẩm đầu vào của chuỗi công nghiệp nitrocellulose chủ yếu là bông tinh chế, axit nitric và cồn, còn các lĩnh vực ứng dụng chính ở hạ nguồn là chất đẩy, sơn nitro, mực, sản phẩm celluloid, chất kết dính, dầu thuộc da, sơn móng tay và các lĩnh vực khác.
Nguyên liệu chính của nitrcellulose là bông tinh chế, axit nitric, cồn, v.v. Sự phát triển của bông tinh chế ở Trung Quốc đã trải qua hơn nửa thế kỷ. Tân Cương, Hà Bắc, Sơn Đông, Giang Tô và các nơi khác tiếp tục xây dựng các dự án bông tinh chế, năng lực sản xuất của ngành đã dần được mở rộng, cung cấp đủ nguyên liệu cho sản xuất nitrocellulose.

Sản lượng bông tinh chế của Trung Quốc năm 2020 dự kiến đạt khoảng 439.000 tấn, trong đó sản lượng axit nitric đạt 2,05 triệu tấn, sản lượng cồn lên men đạt 9,243 triệu lít.
Nitrocellulose của Trung Quốc chủ yếu xuất khẩu sang Hoa Kỳ và Việt Nam, hai quốc gia này chiếm hơn một nửa lượng nitrocellulose xuất khẩu trong nước. Dữ liệu cho thấy, vào năm 2022, lượng nitrocellulose xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ và Việt Nam là 6100 tấn và 5900 tấn, chiếm 25,5% và 24,8% lượng nitrocellulose xuất khẩu của cả nước. Pháp, Ả Rập Xê Út, Malaysia chiếm lần lượt 8,3%, 5,2% và 4,1%.
So sánh với kim ngạch xuất nhập khẩu nitrocellulose, quy mô xuất khẩu nitrocellulose của Trung Quốc lớn hơn nhiều so với kim ngạch nhập khẩu. Lượng nitrocellulose nhập khẩu khoảng hàng trăm tấn, nhưng xuất khẩu chỉ khoảng 20.000 tấn. Đặc biệt, năm 2021, nhu cầu quốc tế tăng mạnh và xuất khẩu cũng tăng đáng kể, đạt đỉnh 28.600 tấn trong năm gần đây. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch COVID-19 vào năm 2022, nhu cầu đã giảm xuống còn 23.900 tấn. Về nhập khẩu, lượng nitrocellulose nhập khẩu năm 2021 là 186,54 tấn và năm 2022 là 80,77 tấn.
Theo thống kê, tính đến ba quý đầu năm 2021, kim ngạch nhập khẩu nitrocellulose của Trung Quốc là 554.300 đô la Mỹ, tăng 22,25% và kim ngạch xuất khẩu là 47,129 triệu đô la Mỹ, tăng 53,42%.
Thời gian đăng: 31-08-2023